Quyền hưởng gia sản thừa kế gia sản

Dù là tình thân máu mủ nhưng ko ít gia đình đã đánh về với đất mẹ đi hạnh phúc ấy chỉ vì tranh chấp đất đai, gia sản thừa kế khi ông bà, thầy u mất. Có phổ quát tình thế người lâm chung chưa kịp viết di chúc thì việc tranh dành này sẽ diễn ra rắc rối hơn do còn phân định về quyền hưởng tài sản thừa kế. Trong phổ biến bối cảnh, người có tên trong hộ khẩu gia đình chưa chắc đã đồng ý nhận được quyền huởng di sản thừa kế số di sản mà người quá cố để lại nếu như trong chúc thư ko nêu. Cụ thể về mối liên quan giữa quyền huởng di sản thừa kế và người có tên trong hộ khẩu, văn phòng luật sư uy tín tại tphcm giải thích dưới đây. Mời bạn đọc cùng Tìm hiểu.Người có tên trong hộ khẩu chưa chắc đã được thừa kế gia sản

Dựa trên quy định tại Điều 3 và Điều 11 luật pháp cư ngụ năm 2006 và pháp luật sửa đổi, bổ sung 1 số điều của luật pháp trú ngụ năm 2013, công dân có quyền song song cũng là phận sự đăng ký (hộ khẩu) thường trú hoặc trú ngụ tại một địa điểm nhất thiết để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc quản lý nhà nước về cư trú.


 Quyền hưởng gia sản thừa kế gia sản
 Quyền hưởng gia sản thừa kế gia sản

Trong luật này cũng như các văn bản chỉ dẫn thi hành ko có quy định nào diễn tả công dân đăng ký hộ khẩu ở liên hệ nào thì được sở hữu nhà đất ở liên hệ đó. Vì lý do, việc công dân đăng ký hộ khẩu là nhằm mục đích giám định nơi tạm trú của công dân chứ chẳng hề là căn cứ nhận định quyền sở hữu tài sản tại địa điểm đăng ký hộ khẩu của công dân.


Điều 676 Bộ luật pháp Dân sự 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật

Những người thừa kế dựa theo pháp luật được quy định dựa theo trật tự sau đây:

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: bà xã, chồng, thầy đẻ, má đẻ, bố nuôi, má nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

Hàng thừa kế thứ 2 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người về với đất mẹ mà người qua đời là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người mất mà người về với đất mẹ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người mất mà người trở về cát bụi là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng thừa hưởng phần tài sản ngang nhau.

Các người ở hàng thừa kế sau đó chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn người nào ở hàng thừa kế trước do đã mất, ko có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc không muốn sở hữu nhận gia sản.


Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 nguyên tắc : Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, má nuôi và bố đẻ, má đẻ: “ con nuôi và thầy nuôi, bu nuôi được thừa kế gia sản của nhau và được thừa kế gia sản căn cứ nguyên tắc tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ pháp luật này.

Theo như quy định trên, 1 người đã nhận người khác mang lại con nuôi của mình dựa trên quy định của luật sẽ là cha nuôi, má nuôi của người con nuôi đó. Vậy nên họ là những người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của ba má nuôi mình.

Quy định này được hiểu, một người vừa được thừa kế tài sản của ba má nuôi vừa được thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ như người ko làm cho con nuôi của người khác. Người chấp nhận nuôi con nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ như một người không nuôi con nuôi. Cụ thể hơn đối với cha mẹ vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa có quan hệ thừa kế với con nuôi . Đối với người con nuôi vừa có quan hệ thừa kế với ba má nuôi vừa có quan hệ thừa kế với bố mẹ đẻ của mình. Đối với việc thừa kế của người con cần xác định:

+) Về phía gia đình bố mẹ nuôi của người đi mang lại con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với bố nuôi, mẹ nuôi nhưng không có quan hệ thừa với cha mẹ và con đẻ của người nhận con nuôi . Thầy u của người đồng ý nhận con nuôi cũng không được thừa kế của người con đó.

Nếu cha nuôi với mẹ nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi đó không cố nhiên trở thành con nuôi của người khác đó, vì đó họ không phải là thừa kế của nhau theo như luật.

+) Về phía gia đình, bố mẹ đẻ của người đi khiến con nuôi. Người đã đi làm cho con nuôi của người khác vấn có quan hệ thừa kế với ba má , ông bà nội ngoại , các cụ nội ngoại, anh,chị, em ruột,cô , gì , chú, bác cậu ruột như người không đi mang đến con nuôi. Về nội dung này cần lưu ý . Luật đã thừa nhận quan hệ hôn nhân nảy sinh trước ngày pháp luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 mà ko đăng ký hôn phối thì cũng nên chứng thực việc nuôi con nuôi thực tiễn được xác tạo lập trước ngày này. Việc chấp nhận nuôi con nuôi từ tiếp theo ngày luật Hôn nhân và Gia đình 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01/01/2011 mà ko đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn từ 01/01/2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 . Những trường hơp đồng ý nhận nuôi con nuôi trước ngày 01/01/2011 tới hết ngày 31/12/2015. Nếu hết thời hạn này mà việc đồng ý nhận nuôi con nuôi không được đăng ký thì ko có trị giá pháp lý. Nguyên tắc thế nên, vừa đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi đồng thời biểu hiện sự thống nhất trong nguyên tắc luật pháp.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hướng dẫn doanh nghiệp tiến hành đăng ký kinh doanh qua mạng

Trình tự và hồ sơ xin miễn giấy phép lao động

Việt kiều làm thế nào để xác nhận người gốc Việt Nam?